Xuất thân là một người lính từng vào sinh ra tử trên chiến trường ác liệt nhất trong những năm chống Mỹ, nhà văn Lê Hoài Nam luôn có khao khát mãnh liệt là được viết về những gì mình chứng kiến và trải qua.

Nhà văn Lê Hoài Nam
Với đề tài chiến tranh cách mạng, ông đã để lại dấu ấn đậm nét trong lòng người đọc qua nhiều thể loại như truyện ngắn, bút ký…, đặc biệt là tiểu thuyết. Có thể kể đến “Hạc hồng”, giải thưởng trong Cuộc thi tiểu thuyết lần thứ 5, (2016 – 2020) của Hội Nhà văn Việt Nam. Trong hai năm liên tiếp, ông đã cho ra mắt hai cuốn tiểu thuyết về chiến tranh: Khắc tinh với thần chết (Nhà xuất bản Văn học, 2023), đoạt giải thưởng 5 năm của Bộ Quốc phòng (2020 – 2025) và Thanh xuân như cỏ (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 2024), được trao giải trong Cuộc vận động sáng tác và quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật hướng tới kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng miền Nam 1975 – 2025 do UBND Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức. Và ngày 10/10/2025, “Khắc tinh với thần chết” thêm một lần nữa được vinh danh trong Cuộc thi sáng tác Tiểu thuyết lần thứ nhất của Thời báo Văn học Nghệ thuật giai đoạn 2023 – 2025. Đây thực sự là những minh chứng thuyết phục cho quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, cần mẫn, bền bỉ, đầy tâm huyết, trách nhiệm của người cầm bút toàn tâm toàn ý cho văn chương.

Một số tác phẩm viết về đề tài chiến tranh của nhà văn Lê Hoài Nam
Lệ thường, khi một tác giả viết hai tiểu thuyết cùng một đề tài trong một khoảng thời gian gần nhau như vậy, rất dễ ảnh hưởng nhau, nếu không phải là kết cấu, kiểu nhân vật thì cũng ảnh hưởng giọng văn hoặc không khí tác phẩm. Tuy nhiên, ở Lê Hoài Nam, điều đó hoàn toàn không xảy ra. Trái lại, mỗi cuốn là một nội dung khác nhau, phong cách viết cũng hoàn toàn khác nhau. Ở “Khắc tinh với thần chết”, nhà văn viết về bối cảnh diễn ra vào những năm 1972 – 1973 tại chiến trường khu V, nơi được mệnh danh là “túi bom” trong kháng chiến chống Mỹ. Tác phẩm đã tái hiện chân thực và sống động cuộc chiến cam go, quyết liệt giữa đại đội bộ binh quân Giải phóng và lực lượng hỗ trợ của quân dân địa phương, chống lại liên quân Mỹ, ngụy Sài Gòn, và cả quân Park Chung Hee (Hàn Quốc). Trong điều kiện gian khổ tột cùng, thiều thốn trăm bề, những người lính vẫn kiên cường “bám thắt lưng địch mà đánh”, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ từng tấc đất quê hương. Họ chính là những “Khắc tinh của thần chết”, đúng như nhan đề tác phẩm.
Còn “Thanh xuân như cỏ” lại kể về những người lính trẻ thuộc Lữ đoàn pháo cao xạ, tham gia chiến đấu bảo vệ bầu trời Hà Nội trong năm 1972, khi không quân Mỹ ồ ạt ném bom nhằm “biến Hà Nội thành đống gạch vụn”. Sau những thất bại nặng nề, Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán và ký Hiệp định Paris (1973). Hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô, Lữ đoàn pháo tiếp tục hành quân vào Nam tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Tiểu thuyết tập trung khắc họa hành trình của những người lính trẻ trên con đường tiến vào chiến trường, khi Mỹ và quân đồng minh đã rút khỏi miền Nam. Lúc này, họ chỉ còn đối mặt với quân ngụy nên những cuộc đối đầu diễn ra không khốc liệt như trong “Khắc tinh với thần chết”. Chặng đường hành quân dằng dặc nhưng họ được ngồi trên xe kéo pháo, khác với lính bộ binh trong “Khắc tinh với thần chết”, chủ yếu là hành quân bộ. Nhờ có lương thực mang theo và sự đùm bọc của nhân dân dọc đường nên họ ít phải chịu cảnh đói khát. Đó là sự khác nhau cơ bản về bối cảnh, thời gian, không gian, nhân vật… trong hai cuốn tiểu thuyết. Và, để cảm nhận rõ hơn hai cách viết khác biệt, chúng ta cùng đến với từng tác phẩm.
1. Khắc tinh với thần chết – lối viết đậm chất hiện thực tàn khốc về chiến tranh và sức sống mãnh liệt của người lính
Là một người đã trải qua trận mạc, am hiểu tường tận cuộc sống nơi chiến trường, nhà văn Lê Hoài Nam đã dựa vào những tư liệu mình ghi chép cùng với cuốn nhật ký của trung úy cựu chiến binh Phạm Hữu Thậm mà ông đã tìm thấy sự đồng cảm sâu sắc nên xin phép được sử dụng một phần trong đó để sáng tạo nên tiểu thuyết này. Bởi thế phong cách nổi bật trong tác phẩm mang đậm chất hiện thực. Đó là không lý tưởng hóa hình ảnh người lính trở nên hoàn hảo, không tì vết; cũng như không né tránh hiện thực tàn khốc đau thương của chiến tranh theo kiểu “ta thắng địch thua” mà cho thấy quân ta cũng hy sinh, mất mát rất nhiều. Tất cả đều được ông mô tả một cách chân thực, sống động và để lại nhiều ám ảnh cho người đọc qua cách kể chuyện đầy cuốn hút.

Bìa cuốn tiểu thuyết “Khắc tinh với thần chết”

Nhà văn đã mượn hình thức ghi nhật ký của nhân vật chính Phạm Hữu Thẩm – một chiến sĩ trẻ có năng khiếu văn chương và vốn hiểu biết sâu rộng để kể lại, tạo cảm giác chân thực và xúc động cho người đọc. Nhờ đó, khung cảnh chiến trường hiện lên “như nó vốn có”. Tác giả đã tái hiện cuộc đối đầu sinh tử giữa hai bên trong thế hoàn toàn đối lập. Bộ đội ta thì súng đạn thô sơ, lực lượng mỏng, trang bị thiếu thốn đủ thứ, ăn uống kham khổ, đói khát triền miên, địa hình khắc nghiệt, đất đai khô cằn, cây cối xác xơ, dân bị dồn vào ấp chiến lược. Trong khi quân địch gồm có lính Mỹ, ngụy đông gấp nhiều lần quân ta, trang thiết bị, vũ khí tối tân hiện đại, đồ ăn thức uống đầy đủ. Những trận chiến đầy cam go quyết liệt giữa hai bên, trận nào cũng đầy những thương vong nhưng quân ta quyết không lùi bước. Có lúc, những xác chết chồng chất ngổn ngang, không kịp chôn, người lính còn tự đào huyệt trước cho mình. Quân ta hy sinh cũng rất nhiều. Sự thật đó đã được nhà văn thuật lại bằng nỗi đau và tiếc thương trước sự ngã xuống của đồng đội. Những con chữ của ông cũng trở nên nghẹn ngào, thấm đẫm bi thương theo dòng hồi tưởng. “Trong cuộc chiến tranh không cân sức cho dù chúng ta dùng chiến tranh nhân dân rất mưu trí sáng tạo vẫn không khỏi hy sinh mất mát. Riêng đại đội 2, khi hành quân vào đây quân số là 75… hiện chỉ còn 32 người … Nhưng cũng không thể sánh được với tiểu đoàn 11. Cách đây 3 ngày họ đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng… và chấp nhận hy sinh cả tiểu đoàn” (tr. 93).
Hiện thực tàn khốc của chiến tranh còn là tận cùng của những khổ cực, thiếu thốn mà người lính phải đối mặt và vượt qua. Nhà văn, bằng sự thấu hiểu sâu sắc đã dùng ngòi bút chân thực của mình để kể lại. Trước hết là cái đói hiện lên đầy ám ảnh và bao trùm toàn bộ tác phẩm. Đói đến mức những người lính phải ăn cả thịt khỉ để tồn tại. Khi anh nuôi làm thịt khỉ, “nghe nói cạo lông xong, mình mẩy nó trắng hếu, trông như người, kinh bỏ mẹ”. Dù kinh sợ là thế nhưng hai người lính trẻ Sông và Thẩm vẫn chậc lưỡi chấp nhận. “Ăn thì chắc phải cố thôi. Đói thế này, thịt con gì đút vào miệng đều ngon cả”. Bản năng sinh tồn nguyên thủy của con người trỗi dậy trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Từ rau rừng, quả dại đến côn trùng, hay bất cứ cái gì có thể ăn, họ đều miễn cưỡng đưa vào miệng ngấu nghiến để vượt qua sự hành hạ của cơn đói. Song ghê rợn nhất là cảnh những người lính phải vác súng đi bắn quạ và kền kền – loài chim chuyên rỉa xác người thối giữa – để làm thức ăn. “Thịt quạ hôi thật nhưng còn dễ nuốt”. Còn kền kền thì vừa tanh khẳm, vừa gây đến mức có người chỉ ngửi hơi đã nôn thốc nôn tháo. “Có anh vừa bịt mũi vừa cố nhai nuốt. Nhưng cái món thịt kền kền và thịt quạ rất khó tiêu. Đêm ấy anh nào cũng đi phóng uế, bốc hơi như xác chết” (tr. 102). Như vậy, cái đói đã trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với các nhân vật và cả người đọc, trở thành biểu tượng đậm nét cho sự tàn khốc của chiến tranh.
Sau cái đói là những cơn khát cháy cổ và sốt rét rừng hành hạ người lính. Giữa rừng núi hoang vu, họ phải lần mò theo từng khe suối cạn trơ đáy, mong tìm được chút nước cứu sinh. Có lúc, cả binh trạm không còn một giọt, họ buộc phải múc từ những vũng nhỏ có xác cá chết bốc mùi tanh hôi, mang về đun lên, nhắm mắt mà uống. Thiếu thức ăn, nước uống, lại sống giữa rừng thiêng nước độc, người lính đã bị sốt rét. Những cơn sốt cao khiến cơ thể mê man, toàn thân đau nhức, lạnh run người, cảm giác rét buốt từ trong khớp xương buốt ra, rồi lại nóng bừng như thiêu đốt. Có lúc, các anh rơi vào trạng thái u mê giữa sự sống và cái chết, làm cho kiệt quệ cả thể xác lẫn tinh thần. Rồi thuốc men cũng rất khan hiếm. Nhiều thương binh đành phó mặc số phận, để mặc cho vết thương lở loét, dòi bọ sinh sôi. Đại đội đóng quân nơi rừng sâu, thú dữ tấn công, bom đạn trút xuống như mưa, cái chết luôn rình rập. Họ phải đối mặt với môi trường sống đầy nghiệt ngã: quần áo mặc trên người lúc nào cũng ẩm ướt khó chịu; nước ăn chân tay lở loét đến tận các kẽ ngón ngứa ngáy, đau nhức; muỗi dĩn vây quanh châm chích khắp cơ thể vừa ngứa vừa buốt… Thế nhưng, vượt lên trên tất cả là một sức sống phi thường, một ý chí thép mà những người lính đã vượt qua một cách kì diệu. Tiêu biểu cho tinh thần ấy, phải kể đến nhân vật Phạm Hữu Thẩm – linh hồn của “Khắc tinh với thần chết”, người mà ngay cả tử thần cũng phải đầu hàng.
Không chỉ phản ánh hiện thực tàn khốc, bi thương của chiến tranh, Lê Hoài Nam còn xây dựng một loạt các nhân vật, từ những người lính trẻ, những cán bộ chỉ huy đại đội đến các cô gái dân tộc đều rất chân thực như ngoài đời, chứ không có ý hư cấu hay tô vẽ thêm cho hoàn hảo. Những cái tên như Phạm Hữu Thẩm, Vũ Triền Sông, Hoàng Như Quang, Nguyễn Viết Mậu, Thắng, Cò, Kim Huệ, Kơ Niêl, Hai Huê… ngoài những phẩm chất đáng quý ở người lính, người cán bộ chỉ huy là lòng yêu nước, sự thông minh, mưu trí, dũng cảm, kiên cường, gan dạ, nhân hậu, vị tha… thì ở họ cũng bộc lộ đầy những nhược điểm “rất con người, rất đời thường” mà nhà văn đã không ngần ngại che giấu. Điển hình như Đắc – người lính từng dũng cảm, gan góc, sẵn sàng hi sinh vì đồng đội, nhưng cuối cùng lại trở thành kẻ chiêu hồi, phản bội, để rồi phải nhận cái chết không toàn thây, đầy tủi nhục. Rồi các nhân vật khác, người nặng lòng nhớ vợ thương con, người vì yêu đương mà vi phạm kỷ luật, người tìm cách trốn về với con nhỏ, thậm chí có người vì đói khát mà ăn chặn cả khẩu phần của đồng đội… Tất cả góp phần làm nên bức tranh đa chiều về con người và cuộc sống ở chiến trường, nơi lý tưởng và bản năng, cao cả và thấp hèn luôn song hành với nhau. Tuy nhiên, trong cuộc chiến khốc liệt ấy, giữa những trận bom đạn trút xuống như mưa, cày nát mặt đất, sự sống và cái chết mong manh trong gang tấc thì tình yêu nam nữ vẫn âm thầm nảy nở như một quy luật tự nhiên của con người. Đó là những mối tình của Vũ Triền Sông với Kim Huệ, Phạm Hữu Thẩm với Kơ Niel, hay Cò với Hai Huê… đã làm xao xuyến trái tim người đọc, người nghe. Họ yêu nhau đầy lãng mạn và mãnh liệt của tuổi trẻ, làm cho cuốn tiểu thuyết có sức cuốn hút hơn và mang đậm giá trị nhân văn cao đẹp của tình yêu giữa thời chiến.
Nhà văn Lê Hoài Nam, bằng cái nhìn thấu cảm đã khắc họa chân thực những gian khổ, hi sinh và sức sống kiên cường của người lính, mang đến cho độc giả cái nhìn sâu sắc về chiến tranh trong bối cảnh khốc liệt nhất. Qua đó, chúng ta, nhất là lớp người sinh ra trong thời bình hiểu thêm về cuộc chiến của dân tộc và biết ơn những người đã hy sinh cả tuổi trẻ, máu xương của mình để giành lại độc lập tự do cho đất nước; đồng thời càng thêm trân trọng giá trị của hòa bình hôm nay để sống có trách nhiệm và ý nghĩa hơn với cuộc đời.
2. Thanh xuân như cỏ – lối tự sự đậm chất trữ tình sâu lắng về những người lính trẻ trên hành trình Nam tiến

Bìa cuốn tiểu thuyết “Thanh xuân như cỏ”
Nếu Khắc tinh với thần chết là một hiện thực dữ dội, tàn khốc và bi thương về chiến tranh, thì Thanh xuân như cỏ lại mang đến một sắc thái dịu dàng, nhân văn, thấm đẫm tình người, ngay cả khi hoàn cảnh thực tại của chiến trường vẫn còn khắc nghiệt. Ngay từ nhan đề, tác phẩm đã gợi ra một biểu tượng đầy chất thơ. Cỏ – thứ mềm mại, bé nhỏ, mỏng manh, tưởng như dễ bị giẫm đạp nhưng lại bền bỉ, kiên cường, có sức sống mãnh liệt, cũng là ẩn dụ cho tuổi trẻ trong chiến tranh mà Lê Hoài Nam muốn khắc họa: đẹp đẽ, thanh tân, nhưng không dễ lụi tàn, luôn vươn lên mạnh mẽ giữa nghịch cảnh. Bởi thế, phong cách viết nổi bật của tác giả trong cuốn tiểu thuyết này là lối tự sự đậm chất trữ tình, kết hợp với ngôi kể thứ ba được vận dụng một cách linh hoạt, uyển chuyển, giàu cảm xúc. Dù bối cảnh chiến tranh vẫn còn căng thẳng, gấp gáp, khẩn trương, nhưng trong tác phẩm này, nhà văn đã chọn cách thể hiện nhẹ nhàng, sâu lắng, thiên về khắc họa cảm xúc, nội tâm con người. Điều này có thể thấy qua đoạn miêu tả cuộc hành quân của đại đội pháo phòng không đi qua vùng đất hoang tàn đổ nát. Ở đây, lời kể của nhà văn không chỉ tái hiện hiện thực tàn khốc mà còn gợi lên nỗi xót xa và niềm thương cảm sâu sắc trước những trước những mất mát mà chiến tranh để lại. “Từ Quảng Bình trở vào đâu đâu cũng thấy hố bom, hố đạn pháo. Tới Dốc Miếu, Cồn Tiên, Khe Sanh… xác xe tăng, xe tải, xe kéo pháo nằm ngổn ngang, nhiều xe đã hoen gỉ, cỏ dại phủ kín. Những ngôi nhà bị thiêu cháy, còn trơ lại những cây cột, cái kèo đen thui. Làng mạc hoang vắng, phong cảnh tiêu điều, thỉnh thoảng mới nhìn thấy một bóng người dân, trông héo hắt, lam lũ bước vội…”
Về nhân vật, phần lớn là những người lính trẻ thuộc Lữ đoàn pháo cao xạ trên con đường Bắc – Nam để tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Dưới ngòi bút của Lê Hoài Nam, họ hiện lên thật đáng yêu: hồn nhiên, tinh nghịch, tươi non, đầy sức sống mãnh liệt như cỏ, đúng với ý nghĩa nhan đề. Để làm nổi bật lên điều đó, tác giả đã tập trung tái hiện lại hình ảnh những người lính trên chặng đường hành quân Nam tiến. Ở đây, tính cách của những chàng lính trẻ được bộc lộ rõ nhất. Họ đều là những tân binh, vừa rời ghế nhà trường, có người chưa học hết phổ thông, tâm hồn còn phơi phới những ước mơ khát vọng của tuổi trẻ, khác hẳn với các nhân vật người lính trong “Khắc tinh với thần chết”.
Trên chặng đường hành quân dài đầy gian nan thử thách, những chàng trai ấy đã vượt qua tất cả để hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần không nhỏ vào công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Song cái hay và có sức cuốn hút của tác phẩm là tác giả tập trung vào những khoảnh khắc đời thường của người lính trên suốt dọc đường hành quân. Đó là những cuộc gặp gỡ, trò chuyện thân tình ấm áp với bà con dân tộc, thanh niên xung phong, các cô gái… ở những nơi họ đi qua. Những cảnh họ vui đùa tếu táo, ngồi chuyện trò thân mật với dân làng, chơi đùa cùng trẻ nhỏ, hát vang những ca khúc sôi nổi, viết thư về cho người yêu, và còn biết bao chuyện thú vị khác, được tác giả kể lại một cách sinh động và cuốn hút. Ví như chuyện lấy trộm áo ngực của phụ nữ mang vào bản đổi lấy gà vịt, thức ăn. Đến lần thứ hai thì bị phát hiện. Có anh lính gác cứng nhắc không cho xin xỏ. Cuối cùng may mắn được chỉ huy của đại đội thông cảm bỏ qua. Những chi tiết tưởng chừng nhỏ nhặt ấy lại vừa hài hước, vừa chân thật đã thể hiện rõ chất lính trẻ trung, tinh nghịch, vui nhộn, rất đỗi đời thường và đáng yêu đáng mến.
Ở họ còn có những kỷ niệm khó quên là những trận đánh ác liệt ở cửa ngõ Sài Gòn, đặc biệt là trận 30 tháng 4 góp phần giải phóng miền Nam. Không ít những người lính trẻ đã hy sinh khi tuổi đời chưa đầy hai mươi. Khi đó, cỏ lại trở thành tấm thảm xanh non phủ lên nấm mồ, như vòng tay ôm ấp vỗ về của đất mẹ dành cho những người con đã ngã xuống để bảo vệ Tổ quốc. Họ mãi thanh xuân như cỏ: mềm mại mà kiên cường, tươi non mà bền bỉ. Dù bom đạn có cày xới đến đâu cũng không thể hủy diệt được sức sống mãnh liệt ấy. Họ vẫn luôn hiện hữu trong ký ức và trong trái tim những người ở lại.
Trong cuốn tiểu thuyết, tình đồng đội và tình quân dân hiện lên như những gam màu trong trẻo, hồn nhiên, chan chứa yêu thương, làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn người lính. Giữa chiến trường khốc liệt, tình cảm lứa đôi vẫn âm thầm nảy nở, khiến trái tim những người lính trẻ rung động. Tình cảm ấy trở thành điểm tựa tinh thần quý giá, giúp họ vượt qua những hiểm nguy, mất mát. Song có những mối tình đầy tiếc thương, vừa hé nở đã vội chia lìa bởi bom đạn chiến tranh, để lại trong lòng người ở lại nỗi đau không thể xóa nhòa. Điển hình là mối tình đầu còn nhiều ngập ngừng e thẹn nhưng cũng đầy trìu mến, đắm say của Nguyễn Tiến Lợi và Nguyễn Thị Sự – đôi bạn cùng quê, cùng nhập ngũ một ngày. Họ chỉ vừa kịp ngỏ lời yêu nhau vào cái đêm chia tách khi mỗi người phải nhận nhiệm vụ ở một đơn vị chiến đấu khác nhau. Đơn vị Sự hành quân trước. Khi đại đội pháo của Lợi vượt lên gặp đơn vị hậu cần của Sự thì anh cùng đồng đội chỉ còn biết dàn hàng ngang viếng mộ người con gái ấy trong đớn đau lặng lẽ. Sự đã hy sinh khi vấp phải một quả mìn lúc lội qua con suối. Lợi phải nén đau thương, tiếp tục hành quân cùng đồng đội. Người đọc vừa thương tiếc, vừa xót xa cho mối tình đầu đời của người con gái.
Không chỉ có tình yêu trong sáng và thiêng liêng của những người lính trẻ, điểm sáng nhân văn nhất trong tác phẩm còn là tình con người giữa hai chiến tuyến – thứ tình cảm sâu thẳm và bao dung ngay cả sau chiến thắng 30 tháng 4. Khi chiếm được Dinh Độc Lập, những người lính của Lữ đoàn pháo cao xạ đã không trả thù những tên lính ngụy bị bắt. Câu nói của chính trị viên Ngô Minh Tâm: “Chúng ta là con của một nước, cùng máu đỏ da vàng… tha cho các em về với gia đình”không chỉ là tuyên ngôn về lòng nhân đạo mà còn là biểu tượng cho khát vọng hòa hợp dân tộc, một giá trị nhân văn xuyên suốt tác phẩm.
Hiện thực luôn là chất liệu cho văn học. Dẫu nhà văn có hư cấu, sáng tạo đến đâu, thì hiện thực vẫn là điểm tựa để câu chuyện trở nên chân thực và thuyết phục. Điều đó tạo nên giá trị và sức sống lâu bền cho tác phẩm. Có lần, tôi hỏi nhà văn Lê Hoài Nam rằng: trong cách xây dựng nhân vật, ông có dựa vào nguyên mẫu nào từ đời thực không, bởi nhiều nhân vật trong sáng tác của ông khiến người đọc có cảm giác như họ đang hiển hiện giữa đời thường. Ông cho biết: “Khá nhiều nhân vật trong những tiểu thuyết và truyện ngắn của tôi lấy nguyên mẫu từ những con người thật ở ngoài đời. Chẳng hạn như tỉnh đội trưởng Nguyễn Thượng Đường trong tiểu thuyết “Hạc hồng” chính là hình ảnh Thượng tá Nguyễn Thượng Trung – tỉnh đội trưởng tỉnh đội Nam Hà thời chiến tranh. Hay Trung úy Phạm Hữu Thẩm trong “Khắc tinh với thần chết” vốn nguyên mẫu từ trung úy, tiểu đoàn phó Phạm Hữu Thậm ngoài đợi thực. Đặc biệt trong tiểu thuyết “Thanh xuân như cỏ”, có ba nhân vật vẫn được giữ nguyên tên thật: chiến sĩ Nguyễn Tiến Lợi, chiến sĩ Nguyễn Thị Sự, bác sĩ Tôn Thất Tùng… Tất nhiên khi đưa họ vào tác phẩm, tôi không chỉ sao chép nguyên xi, mà đã vận dụng nguyên lý sáng tạo nghệ thuật để làm cho những nhân vật ấy trở nên sống động, có hồn, lấp lánh hơn và lưu lại trong trí nhớ bạn đọc”. Từ những nguyên mẫu đời thực, trong tiểu thuyết “Thanh xuân như cỏ”, Lê Hoài Nam đã sử dụng lối tự sự đậm chất trữ tình sâu lắng và chan chứa cảm xúc nhân văn, khiến hình ảnh những người lính trẻ trên con đường Nam tiến vừa chân thực, vừa gần gũi với đời thường. Giữa khói lửa chiến tranh, họ vẫn giữ trọn nét hồn nhiên, trong sáng, tinh nghịch, vẫn xanh tươi như cỏ – tượng trưng cho sức sống bền bỉ và vẻ đẹp bất diệt của tuổi thanh xuân.

Những tác phẩm của nhà văn Lê Hoài Nam
Với quan niệm “không giẫm lên vết chân mình, cũng không giẫm vào chân người khác”, nhà văn Lê Hoài Nam đã chọn cho mình một lối đi riêng khi viết về chiến tranh. Nếu Khắc tinh với thần chết tập trung khắc họa sự khốc liệt ở một vùng chiến địa và sức sống mãnh liệt của người lính, thì Thanh xuân như cỏ lại chú trọng vào những khoảnh khắc đời thường: tình yêu, tình đồng đội, tình quân dân trên chặng đường hành quân. Mỗi tác phẩm là lát cắt khác nhau của cùng một đề tài, thể hiện sự đa dạng trong bút pháp và chiều sâu tư tưởng của nhà văn. Hai tác phẩm, hai giọng điệu, hai cách tiếp cận, nhưng cùng gặp nhau ở một điểm: hòa bình hôm nay được xây nên từ máu xương của những người lính đã ngã xuống, đồng thời được thắp sáng từ tình yêu sâu sắc với con người, cuộc sống và đất nước. Đó cũng là thông điệp mà Lê Hoài Nam gửi gắm qua trang viết của mình. Những tác phẩm ấy không chỉ đáng đọc, đáng suy ngẫm mà còn giúp độc giả, đặc biệt là lớp trẻ hôm nay, hiểu hơn về một thời lịch sử hào hùng của dân tộc. Từ đó, mỗi người càng thêm trân trọng cuộc sống hòa bình, tươi đẹp; biết ơn những hy sinh to lớn của cha anh và sống có trách nhiệm hơn với hiện tại và tương lai. Thật đáng quý biết bao những đóng góp của nhà văn xứ Thành Nam – người đã lưu giữ ký ức chiến tranh qua những trang viết đầy chân thực và sáng tạo, làm lay động trái tim độc giả về một thời binh lửa và giá trị thiêng liêng của hòa bình.
Hà Nội, tháng 10 năm 2025
Phạm Thị Hường





Bình luận về bài viết này