Có quyết định của Ban tổ chức Tỉnh ủy về huyện ủy Hiệp Hòa từ tháng 12 năm 1990, nhưng đến đầu tháng 1 năm 1991 tôi mới chính thức nhận nhiệm vụ. Sau khi trình quyết định, tôi được điều về Ban tuyên giáo, làm cán bộ. Được về theo nguyện vọng là vui rồi, chẳng phàn nàn gì. Ban tuyên giáo chỉ có 4 người, anh Trần Xuân Luân là trưởng ban, anh Ngô Anh Tường là phó ban, có 2 cán bộ là anh Chu Quang Hiển và anh Nguyễn Trọng Lưu, nhưng anh Lưu được phân công chuyên trách viết lịch sử Đảng bộ huyện, coi như chỉ có 3 người. Thêm tôi nữa là 4 người, 2 lãnh đạo và 2 cán bộ. Lần đầu gặp trưởng ban để nhận nhiệm vụ, được anh tiếp đón rất cởi mở và thân thiện, anh nói về công việc của ban. Rất nhiều việc, tôi tỏ ra lo lắng, anh lại cười xòa, “không sao, chú cứ làm, dần sẽ quen hết”. Tôi được giao phòng làm việc và tiếp cận tài liệu hồ sơ sổ sách của ban. Phòng làm việc là ngôi nhà cấp 4 ba gian thông suốt, không có vách ngăn, cả phó ban và hai cán bộ dùng chung một bàn to đặt ở giữa phòng và hai tủ gỗ kê hai bên. Đây có lẽ là nhà kho trước khi sử dụng vào chức năng phòng làm việc của ban tuyên giáo. Phía trước là vườn chuối cằn cỗi, đầy cỏ dại và cây xí hổ. Chếch lên phía trên là ba dãy nhà cấp 4 song song, một dãy là phòng làm việc của bí thư và phó bí thư ở hai bên đầu, giữa là phòng họp huyện ủy. Hai dãy còn lại là phòng làm việc của các trưởng ban và các bộ phận Ban tổ chức, Ban kiểm tra, Văn phòng.
Những ngày đầu công việc ít, hàng ngày chỉ nghiên cứu tài liệu, sớm đi trưa về, chiều đi tối về, cứ đều đều như thế một thời gian dài. Đang ở nơi công việc sôi động nay về môi trường mới cũng thấy hơi buồn. Tôi và anh Nguyễn Đăng Toàn, cán bộ ban kinh tế nhận “thầu vườn chuối” gọi là thầu nhưng không phải trả sản phẩm gì chỉ là tranh thủ ngày nghỉ dọn cỏ chăm sóc cho vườn đỡ hoang dại, thỉnh thoảng có buồng chuối chín lại chiêu đãi cơ quan. Nhưng cũng vui. Được khoảng hai năm, đến năm 1994 Huyện ủy xây dựng trụ sở mới kiên cố ba tầng, phá hết các dãy nhà cấp 4 và vườn chuối.
Sau một thời gian dài tìm hiểu và làm quen, tôi đã tiếp cận và chủ động với công việc của ban tuyên giáo. Chức năng chủ yếu của ban là công tác tuyên truyền và công tác khoa giáo. Hàng tháng mở hội nghị thông tin tình hình chính trị thời sự, tình hình kinh tế xã hội trong huyện trong tỉnh và trong nước đến cơ sở, bằng hình thức tuyên truyền miệng. Đi nói chuyện thời sự khi các đảng bộ xã đề nghị trên cơ sở đã được nghe trên Ban tuyên giáo tỉnh. Hàng tháng mở lớp bồi dưỡng kết nạp đảng ở các xã hoặc cụm xã. Đi triển khai, phổ biến nghị quyết của trung ương đến đảng viên. Đã bắt nhịp với công việc ở cơ quan, tôi đã rất vui, đồng thời lại đón nhận niềm vui lớn, ngày 20 tháng 4 năm 1991, bà xã sinh con trai thứ hai, mẹ khỏe con khỏe, chúng tôi đặt tên con là Nguyễn Kiên Trung.
Lúc này ban tuyên giáo đã thiếu người, anh Chu Quang Hiển lại được cử đi học trường Nguyễn Ái Quốc. Ban chỉ còn 3 người. Có việc thì cả 3 anh em cùng làm, có việc thì cắt cử từng người đảm nhận, mình là cán bộ đang hăng say đương nhiên phải xông pha. Đang lúc thiếu người, được huyện ủy tiếp nhận và điều động cho ban tuyên giáo hai cán bộ nữa là anh Dương Quang Du và anh Hoàng Văn Kiểm, đều là giáo viên trường cấp 3 Hiệp Hòa. Khí thế của ban tuyên giáo đang lên, năm 1993 anh Ngô Anh Tường phó ban được chuyển sang làm giám đốc đài truyền thanh. Tôi được đề bạt làm phó ban thay vị trí của anh Tường. Công việc ngày một dày đặc, tôi đã làm tốt nghiệp vụ chuyên môn. Tôi đề xuất với trưởng ban hàng tháng ra “bản tin nội bộ”, được trưởng ban và thường trực huyện ủy chấp thuận. Từ đó hàng tháng có bản tin nội bộ do Ban tuyên giáo phát hành, thông tin tình hình thời sự trong huyện trong tỉnh và trong nước đến các chi đảng bộ cơ sở. Bản tin nội bộ lúc đầu rất thô sơ chỉ hơn chục trang khổ A4 gấp đôi, không có bìa , trang đầu ghi “Ban tuyên giáo huyện ủy Hiệp Hòa” ở phía trên, “BẢN TIN NỘI BỘ” ở giữa. Nội dung bản tin còn nghèo nàn nhưng cũng mất nhiều thời gian mày mò viết tin của anh em trong ban. Một lần anh Dương Quang Du viết bài chống tiêu cực. Viết về những tiêu cực của ông Long ở Danh Thắng với tựa đề “người vì dân hay kẻ cơ hội”. Bài viết mạnh mẽ và hoàn toàn đúng sự thật, nhưng thiếu căn cứ pháp lý nên bị ông Long khiếu kiện mấy năm. Đây là một chi tiết đáng rút kinh nghiệm. Dù chưa được như ý nhưng bản tin nội bộ là một sáng kiến, những người đầu tiên viết tin bài đã chuyển sang làm việc khác nhưng bản tin nội bộ vẫn được duy trì đều đặn suốt từ năm 1993 đến nay. Càng về sau chất lượng càng cao.
Năm 1994, tôi được bầu vào Hội đồng nhân dân huyện khóa 1994-1999, kỳ họp đầu tiên được bầu làm trưởng ban pháp chế. Năm 1995, huyện ủy thành lập trung tâm bồi dưỡng chính trị theo nghị quyết số 100 – NQ/TW của ban bí thư, tôi được huyện ủy quyết định kiêm giám đốc. Như vậy, sau nhiều năm không còn trường đảng cấp huyện, nay thành trung tâm bồi dưỡng chính trị có chức năng như trường đảng. Trung tâm trực thuộc Ban tuyên giáo, nhưng có tư cách pháp nhân, có con dấu, có số lượng cán bộ, có cơ sở vật chất riêng. Được biên chế 3 cán bộ: giám đốc, cán bộ giáo vụ là anh Dương Quang Du, cán bộ hành chính kế toán là cô Âu Thị Thi. Nhiệm vụ chính của trung tâm là làm công tác huấn học đồng thời vẫn làm những việc khác do ban tuyên giáo phân công. Trung tâm bồi dưỡng chính trị lúc đầu chỉ có một phòng học cấp 4, đến nay sau gần 30 năm, có cơ ngơi kiên cố khang trang. Tôi tự hào được là giám đốc đầu tiên.
Đại hội đảng bộ lần thứ 19 nhiệm kỳ 1996 – 2000 diễn ra từ ngày 26 đến 28-3-1996. Đang trong không khí tưng bừng của đại hội tôi nhận tin buồn là bố mất. Không bất ngờ vì bố đã yếu mấy năm rồi, nhưng tôi vẫn bàng hoàng không tin đó là sự thật, đầu óc choáng váng, mắt nhòe đi, chân tay run bần bật. Tội gục xuống bàn trong hội trường một lúc rồi xin phép nghỉ đại hội. Về đến nhà thì bố đã ra đi. Tôi ôm bố, nước mắt cứ trào ra, vì thương bố và vì hối hận chưa báo đáp được cho bố. Bố mất ngày 20 tháng giêng âm lịch năm 1996, hưởng thọ 84 tuổi. Trong khi vắng mặt, tôi được đại hội bầu vào ban chấp hành, tại kỳ họp thứ nhất được bầu vào ban thường vụ huyện ủy, được phân công làm trưởng ban tuyên giáo. Anh Trần Xuân Luân chuyển sang chủ tịch mặt trận tổ quốc.
Một giai đoạn mới với trọng trách mới, là người đứng đầu cơ quan ngôn luận của Đảng cấp huyện. Từ nay sẽ là người chủ trì mọi công việc của ban và TTBDCT, với ba cốt lõi là công tác tuyên truyền, công tác huấn học và công tác khoa giáo.
Làm trưởng ban được gần một năm, đang nung nấu đổi mới cải cách công tác tuyên giáo thì có nghị quyết của quốc hội tách tỉnh Hà Bắc thành hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh từ ngày 1-1-1997. Tôi được bầu làm phó chủ tịch UBND huyện thay anh Ngô Quang Toản chuyển lên sở văn hóa. Cũng thời điểm tách tỉnh, anh Nguyễn Quốc Cường bí thư huyện ủy lên làm phó bí thư tỉnh ủy, anh Dương Ngô Cầu chủ tịch UBND sang bí thư huyện ủy, anh Nguyễn Văn Dương phó chủ tịch lên chủ tịch, anh Nguyễn Quốc Trình lên phó chủ tịch thay vị trí của anh Dương. Như vậy năm đầu tiên trở lại tỉnh Bắc Giang, thường trực UBND huyện gồm: anh Dương chủ tịch tôi và anh Trình phó chủ tịch.
Sang UBND là công tác điều hành trực tiếp. Việc gì cũng nóng. Phải xếp lịch theo giờ để tranh thủ thời gian giải quyết công việc. Tôi được phân công phụ trách khối văn xã, với các lĩnh vực : giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, văn hóa thể thao, chính sách xã hội, xóa đói giảm nghèo… và rất nhiều ban chỉ đạo thuộc các lĩnh vực khác. Việc trong kế hoạch, việc phát sinh, việc đột xuất. Họp tỉnh, họp huyện, họp với cơ sở. Cứ liên miên, chẳng kể tối ngày, chẳng kể ngày nghỉ ngày lễ. Tám năm làm phó chủ tịch luôn luôn nhiệt huyết cố gắng và đã dày kinh nghiệm, đóng góp nhiều cho sự phát triển của huyện. Biết rằng phát triển là khách quan và do tập thể nhưng có dấu ấn chủ quan của người phụ trách. Đơn cử một vài việc sau đây:
– Sau nghị quyết TW2 khóa 8 tháng 12 năm 1996 về “định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, lần đầu tiên xác định “thực sự coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu”, UBND huyện đã xây dựng kế hoạch thực hiện phát triển toàn diện ngành giáo dục, trọng tâm là xây dựng cơ sở vật chất trường học, xây dựng trường chuẩn quốc gia. Thành lập ban chỉ đạo xây dựng cơ sở vật chất trường học. Xây dựng cơ chế chính sách thu hút đầu tư, cơ chế chính sách hỗ trợ. Thiết kế phòng học mẫu. Chủ trương tạo quỹ đất cho trường học. Mỗi năm hai lần tổng hợp đánh giá kết quả … Vì thế chỉ sau hơn hai năm đã không còn phòng học tranh tre nứa lá, số phòng học kiên cố đã đạt 27%, đến năm 2005 đạt 50%. Trường tiểu học thị trấn Thắng và tiểu học Đức Thắng là 2 trường đầu tiên trên địa bàn huyện được công nhận là trường chuẩn quốc gia. Xã Thanh Vân là xã đầu tiên có hai trường tiểu học và THCS được công nhận trường chuẩn quốc gia. Chưa bao giờ có phong trào và kết quả xây dựng cơ sở vật chất trường học, trường chuẩn quốc gia cao như thế. Cơ ngơi các trường học từ lụp sụp đang trở thành khang trang sạch đẹp. Kết quả xây dựng cơ sở trường học giai đoạn 1998 – 2005 đã tạo đà cho giai đoạn tiếp theo. Đến nay cơ sở vật chất trường học trên toàn huyện quá tuyệt vời.
– Tháng 7 năm 1998 trung ương ban hành nghị quyết TW5 khóa 8 “xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết khẳng định: “văn hóa là sức mạnh nội sinh giúp phát triển bền vững đất nước”. Đây là yêu cầu cũng là cơ hội để huyện bứt phá về lĩnh vực văn hóa. Huyện đã phát động mạnh mẽ phong trào xây dựng “làng văn hóa”, “gia đình văn hóa”, “nếp sống văn hóa”. Tích cực chỉ đạo xây dựng “quy ước làng văn hóa”, xây dựng nhà văn hóa thôn, đầu tư tăng âm loa đài và trang thiết bị cho các nhà văn hóa, nâng cấp hệ thống đài truyền thanh xã. Đến năm 2005 các cột mốc văn hóa đã có bước tiến dài, 100% các thôn làng được UBND huyện phê duyệt quy ước làng văn hóa, 40,6% số thôn làng đạt danh hiệu làng văn hóa cấp huyện và cấp tỉnh. 90% thôn làng có nhà văn hóa (kể cả những thôn lấy Đình làm nơi sinh hoạt văn hóa). 40% xã có đài truyền thanh, 100% thôn có loa truyền thanh. Các làng văn hóa tiêu biểu nhất thời kỳ này là thôn Trung Tâm xã Hợp Thịnh, thôn Đức Nghiêm xã Ngọc Sơn, thôn Hương Thịnh xã Quang Minh, thôn Vạn Thạch xã Hoàng Vân, thôn Trung Hòa xã Mai Trung, thôn Đông Lỗ xã Đông Lỗ… Kết quả xây dựng nếp sống văn hóa và đời sống văn hóa giai đoạn này cũng là động lực nền tảng cho phong trào ở giai đoạn sau.
– Để tăng cường thế mạnh và giá trị của ATK II đã được trung ương chọn trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, huyện chủ trương đề nghị Nhà nước cấp bằng công nhận di tích ATK. Tôi và các đồng chí lãnh đạo phòng văn hóa lên Định Hóa Thái Nguyên tham khảo các bước tiến hành và hồ sơ đề nghị công nhận di tích ATK của họ (vì ATK Định Hóa vừa được công nhận). Sau đó chúng tôi lập hồ sơ trình UBND rồi trình thường vụ huyện ủy. Tờ trình ban đầu chỉ có 9 xã thuộc ATK, gồm các xã của tổng Hoàng Vân cũ và Xã Xuân Cẩm vì có đình Xuân Biều đã được bộ văn hóa công nhận di tích lịch sử thuộc ATK, nơi đây dã diễn ra cuộc khởi nghĩa Xuân Biều ngày 12-3-1945. Xã Hòa Sơn, nơi đây đã diễn ra cuộc mít tinh ngày 12-7-1945, xã Thái Sơn vì có cơ sở hoạt động của đồng chí Hoàng Văn Thái. Khi thông qua thường vụ có vài ý kiến cho rằng các đồng chí tiền bối về hoạt động ở Hoàng Vân phải đi qua các xã ven Sông Cầu, cần đưa thêm các xã này vào tờ trình. Cuối cùng, hội nghị kết luận đưa 16 xã vào tờ trình đề nghị công nhân ATK. Hoàn thiện hồ sơ gửi lên tỉnh, lên bộ văn hóa từ năm 2003 nhưng mãi chẳng có kết quả. Sau đó các đồng chí kế nhiệm lập lại hồ sơ nhiều lần và thay đổi biện pháp tiếp cận. Mãi đến năm 2012 mới được chính phủ công nhận di tích ATK II gồm 16 xã. Năm 2020 chính phủ quyết định công nhận ATK II là di tích quốc gia đặc biệt.
Đại hội đảng bộ huyện lần thứ XXI vào tháng 10 năm 2005, tôi được bầu làm phó bí thư thường trực kiêm chủ tịch HĐND huyện. Sau 8 năm làm việc bên ủy ban, nay lại quay về huyện ủy. Để hoàn thành trách nhiệm của Phó bí thư thường trực và Chủ tịch HĐND không phải dễ, thậm chí rất khó khăn phức tạp: Nào là công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, công tác kiểm tra, công tác tuyên giáo, công tác dân vận; Nào là công tác mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội; Nào là công tác giám sát, tiếp xúc cử tri, tổ chức các kỳ họp Hội đồng nhân dân…Huyện ủy là cơ quan lãnh đạo chỉ đạo, nhưng thường trực huyện ủy gồm Bí thư, Chủ tịch và Phó bí thư thường trực không chỉ lãnh đạo chỉ đạo mà còn phải trực tiếp, sâu sát, quyết liệt với mọi diễn biến. Đặc biệt là những lĩnh vực, những vụ việc nổi cộm phức tạp ảnh hưởng đến an ninh trật tự, ảnh hưởng đến tư tưởng niềm tin của nhân dân. Năm 2005, 2006 thường trực huyện ủy tập trung chỉ đạo giải quyết các điểm nóng. Có hai điểm nóng nhất lúc đó là thôn Tứ xã Lương Phong và thôn Nghĩa Tiến xã Đông Lỗ. Ở thôn Tứ cả chính quyền và nhân dân chống đối đầu tư xây dựng nhà máy trong khi đã nhận bồi thường đất, mâu thuẫn nội bộ, rồi đến khiếu kiện đông người xảy ra xô sát. Ở thôn Nghĩa Tiến, tính phức tạp có hai mặt: Một là, có tranh chấp ruộng đất với thôn Xuân Bầu xã Hương Mai Việt Yên dẫn tới ẩu đả. Hai là, trong thôn hình thành hai nhóm đối lập mẫu thuẫn kéo dài. Thường trực phân công anh Nguyễn Quốc Trình – chủ tịch trực tiếp giải quyết tình hình thôn Tứ, tôi trực tiếp giải quyết tình hình thôn Nghĩa Tiến. Cả hai điểm nóng này phải hơn hai năm sau mới tạm ổn.

Năm 2007, đồng chí bí thư huyện ủy được rút về tỉnh, đồng chí chủ tịch sang bí thư, tôi lại chuyển sang ủy ban làm chủ tịch UBND. Trở lại ủy ban lần này với cương vị là người đứng đầu, tôi xác định trách nhiệm rất nặng nề. Là chủ tịch phải có cách nghĩ, cách nhìn, cách hành động khác so với lúc làm phó chủ tịch, phó bí thư. Trong bạt ngàn công việc phải chọn việc cốt lõi, xác định cái gì là nhất thời cái gì là mãi mãi, cái gì là trước mắt, cái gì là lâu dài. Những việc trước mắt có tính cấp bách phải tập trung giải quyết dứt điểm. Ví dụ: Công tác phòng chống thiên tai lụt bão, giải quyết mâu thuẫn trong nhân dân, giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo, tranh chấp đất đai…Những việc có tính lâu dài thì phải chú trọng, thận trọng. Ví dụ: quy hoạch kinh tế – xã hội, quy hoạch đất đai, quy hoạch giao thông, quy hoạch thị trấn đến năm 2020… Trong khi điều hành nếu có phát sinh những chiều hướng trái ngược thì phải giữ cái đại thể, cái toàn cục, cái lâu dài, có lợi cho sự nghiệp chung, không nóng vội, không vì cái lợi trước mắt mà làm mất tương lai lâu dài, không vì cái thành công nhỏ mà làm mất cơ hội thành công lớn.
Có hai việc nhìn lại tôi thấy mình đã đúng.
Một là: Quy hoạch và xây dựng nâng cấp khu vực tượng đài. Thời điểm năm 2007 về trước, khu tượng đài bề bộn và lộn xộn lắm, xung quanh ông tượng đường xuyên dọc xuyên ngang từ 6 hướng chuyển đi chuyển lại. Bên đài tưởng niệm thì bị vây kín bởi hàng rào sắt, một vế bị nhà dân lấn chiếm che khuất. Nền đất thấp, mưa xuống là ngập nước, hết mưa là bụi. Tôi cho phòng chuyên môn xây dựng các phương án cải tạo nâng cấp. Khi thông qua ủy ban, tất cả các thành viên đều thảo luận rất say sưa. Ai cũng đồng tình rằng cần phải cải tạo. Nhưng theo phương án nào thì không được ngã ngũ. Bởi phương án nào cũng có điều bất hợp lý. Tôi cho dừng lại để khảo sát thêm. Vào một ngày nghỉ, tôi ra hiện trường quan sát thật kỹ tình hình thực tế. Trong bụng thầm nghĩ, phải giải tỏa một đoạn dãy phố áp sát đài tưởng niệm để có không gian thông từ cổng huyện ra khu tượng đài. Nhưng đây là việc vô cùng khó vì phải di chuyển hàng chục hộ dân. Liệu họ có đồng ý không? Lấy đất đâu tiền đâu để bồi thường? Lại họp ủy ban, tôi nêu ý tưởng giải tỏa một đoạn dãy phố để không gian khu tượng đài thông thoáng và có tính liên hoàn. Mọi người đều nhất trí. Kết luận giao cho phòng chức năng khảo sát xây dựng phương án. Sau khi hoàn thành phương án nâng cấp tổng thể khu vực tượng đài, phương án giải tỏa được triển khai, nhưng quả thực vô cùng khó khăn. Ban đầu nhiều hộ không đồng ý di chuyển, họp lên họp xuống, vận động tới lui. Mất hơn hai năm mới di chuyển được 19 hộ ra ba vị trí là khu gốc si, trạm vật tư, cạnh kho bạc cũ. Còn 3 hộ cũng nằm trong kế hoạch di chuyển nhưng để giai đoạn 2. Nhưng, sau đó không có giai đoạn hai nữa. Sau đại hội đảng bộ lần thứ XXII đến tháng 11 năm 2010 tôi nghỉ công tác. Các đồng chí kế nhiệm tiếp tục thực hiện phương án xây dựng nâng cấp tổng thể khu vực tượng đài, đến năm 2012 thì hoàn thành khang trang đẹp đẽ như ngày nay. Bài học rút ra ở đây là: không nóng vội, phải vì tương lai lâu dài, phải vì thành công lớn hơn. Nếu không giải tỏa 19 hộ dân, nếu cứ đầu tư nâng cấp cải tạo từ năm 2008 thì mất đi cơ hội to đẹp đàng hoàng như bây giờ.
Hai là: việc sử dụng khu đất trạm giống. Theo quy hoạch, trạm nước phục vụ sinh hoạt cho thị trấn thắng sẽ đặt tại trạm giống cũ. Năm 2009, có nhà đầu tư về xin cấp phép đầu tư xây dựng công trình này. Khi tọa đàm bàn phương hướng giải pháp tiến hành, tôi rất hoan nghênh và cam kết tạo mọi điều kiện để công trình sớm được thực hiện. Sau khi nghiên cứu trên bản đồ địa chính, quan sát thực địa và căn cứ vào quy mô trạm nước, tôi quyết định cho công ty sử dụng một nửa khu đất trạm giống bằng 3000m2. Nhà đầu tư có vẻ ngỡ ngàng và cho rằng thửa đất này đã được quy hoạch công trình nước sạch, vì vậy đề nghị cho cả thửa đất này tức là 6000m2. Chủ đầu tư còn chạy đến một số người quan trọng để tác động, muốn tôi thay đổi quyết định. Nhưng tôi đã kiên quyết và phân tích kỹ cho chủ đầu tư và cả người đến tác động rằng: quy hoạch cho công trình nước sinh hoạt ở vị trí này, không có nghĩa là cho toàn bộ diện tích của thửa đất này. Mặt khác quy mô của trạm nước theo sơ đồ thiết kế gồm bể chứa, bể lọc, nhà vận hành, nhà làm việc của công nhân, với diện tích 3000m2 là quá đủ. Còn lại 3000m2 để giành cho công trình khác. Quyết định của tôi được thực hiện. Nhà đầu tư không đạt được mục đích đất đai, vì bồi thường đất cho công trình phúc lợi so với giá thị trường coi như cho không. Phần đất còn lại tôi có ý định sẽ đầu tư cho trung tâm văn hóa thể thao hoặc trung tâm thương mại dịch vụ gì đó. Vì đây là ngã tư giao thông, vị trí trung tâm giao lưu. Năm 2018, UBND huyện cho bán đấu giá thu về ngân sách mấy chục tỷ. Thật buồn vì đã vĩnh viễn mất đi cơ hội cho một công trình phục vụ đời sống dân sinh. Sau này nhìn lại tôi thấy mình đã rất đúng: cái gì cũng phải vì sự nghiệp chung, cái gì giữ lại được thì cố giữ cho giai đoạn sau, cho thế hệ sau, chỉ tiếc là thế hệ sau lại không làm theo hướng của mình.
Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII vào tháng 8 năm 2010. Trước đại hội Bộ Chính trị ra chỉ thị số 37-CT/TW ngày 4-8-2009 về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới đại hội toàn quốc lần thứ XI. Trong đó quy định người tái cử phải còn đủ thời gian công tác từ 36 tháng trở lên. Tức là còn đủ 3 năm mới đến tuổi nghỉ hưu. Tôi thuộc diện không đủ thời gian để tái cử. Sau ngày đại hội, tôi không còn là phó bí thư huyện ủy nữa mà chỉ còn là chủ tịch UBND. Căn cứ vào nghị định 67/2010/NĐ-CP ngày 15-6-2010 của Chính phủ, trong đó quy định những cán bộ chủ chốt không tái cử sẽ giải quyết theo 3 hướng: Bố trí việc khác phù hợp, nghỉ chờ đến tuổi nghỉ hưu, nghỉ hưu trước tuổi. Tỉnh ủy bố trí chuyển tôi lên tỉnh tiếp tục công tác, chưa nói sắp xếp vào vị trí nào, tôi đã đề nghị chọn hướng thứ hai là nghỉ chờ đến tuổi nghỉ hưu. Ngày 27 tháng 10 năm 2010, họp hội đồng nhân dân huyện thông qua nghị quyết cho tôi thôi chức chủ tịch ủy ban nhân dân. Sau mấy ngày bàn giao, từ tháng 11 năm 2010 tôi nghỉ công tác. Đến tháng 7 năm 2013 đủ 60 tuổi, nghỉ hưu.
41 năm 8 tháng công tác, trải qua bốn giai đoạn : Bộ đội – sinh viên – giảng viên – công chức. Giai đoạn nào cũng tích cực, rõ ràng mạch lạc, trong trẻo và đáng tự hào. Giai đoạn nào cũng là một thời đáng nhớ, một thời không thể nào quên. Sẽ là mãi mãi.

Sau gần 100 trang viết về bốn giai đoạn công tác, tôi rút gọn thành bài thơ MỘT THỜI VÀ MÃI MÃI.
Một thời bộ đội tuổi thanh xuân
Gác bút nghiên lên đường ra trận
Góp tay súng canh trời giữ đất
Mỹ cút Ngụy nhào Tổ quốc bình yên.
Một thời thuộc tầng lớp sinh viên
Lên giảng đường vẫn diện hoài quân phục
Ăn bo bo ngủ giường tầng vẫn giàu mơ ước
Miệt mài khám phá chân trời xa.
Một thời giảng viên trường Cao đẳng tỉnh nhà
Mười năm say sưa với giảng đường giáo án
Góp sức nhỏ nhoi với ngành sư phạm
Nâng ước mơ chắp cánh những tâm hồn.
Một thời công chức tại quê hương
Thấm thoát hai mươi năm cống hiến
Từ cán bộ đến người đứng đầu cấp huyện
Cần mẫn gieo mầm việc thiện, răn mình việc ác lánh xa.
Không hoài niệm về một thời đã qua
Nhưng một thời không quên sẽ là mãi mãi.
Tác giả Nguyễn Văn Kỳ





Bình luận về bài viết này