Thuộc diện ưu tiên nhận nơi công tác theo nguyện vọng, tôi có quyết định về tỉnh nhà Hà Bắc. Rất sung sướng thầm nghĩ, chắc sẽ được về trường cấp 3 Hiệp Hòa sau mười năm kể từ ngày nhập ngũ. Khi lên sở giáo dục nhận nhiệm vụ, được tổ chức sở điều về trường Cao đẳng sư phạm Ngô Gia Tự Hà Bắc. Tôi trình bày muốn về trường huyện, vì khi lựa chọn vào học đại học sư phạm đã nghĩ để có cơ hội về công tác gần nhà. Đồng chí cán bộ tổ chức Sở nói trường hợp của anh là do thầy hiệu trưởng trường Cao đẳng chấm đấy. Ngẫm nghĩ một hồi, từ nhà lên Bắc Giang 30km đi xe máy cũng chưa hết một tiếng. Cũng được. Đầu tháng 10 năm 1981, tôi cầm quyết định lên trường gặp thầy hiệu trưởng – thầy Hoàng Cường. Trông thầy hiền từ nhưng quắc thước, da dẻ hồng hào tóc dài như nhà khoa học, cũng có dáng nghệ sỹ. Thày rất vui vẻ hỏi chuyện động viên tôi. Thầy nói, để phấn đấu chuyển từ trường 10+3 lên Cao đẳng khó khăn vất vả lắm, nhưng đã thành công. Trường vừa được công nhận là trường Cao đẳng, còn nhiều việc phải lo, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy… Chỉ một thời gian ngắn trò truyện, tôi đã yêu trường và kính trọng thầy. Thầy không nói gì về việc đã xin tôi về trường, nhưng tôi thầm cảm ơn thầy.

Tác giả tự truyện: Nguyễn Văn Kỳ

Được phân công về khoa các bộ môn chung, gồm tổ chính trị, tổ tâm lý, tổ ngoại ngữ, tổ thể dục thể thao, đương nhiên tôi về tổ chính trị. Tổ toàn đàn ông lớn tuổi, Bác Dậu quê Yên Thế, Bác Bảy, Bác Cơ quê Từ Sơn, Bác Nông, anh Điển quê Việt Yên, Anh Tuệ là tổ trưởng quê Hà Tĩnh hiện đang ở thị xã Bắc Giang. Các bác các anh đều là giáo viên đi học trường Đảng rồi về dạy bộ môn này. Thêm tôi về, tổ có 7 người, duy chỉ có tôi trẻ hơn, được đào tạo chính quy tại trường Đại học sư phạm. 7 người chia nhau giảng dạy ở tất cả các khoa trong toàn trường. Chương trình các môn Mác Lê nin giành cho các lớp mỗi tuần 2 tiết. Mỗi người phải lên lớp trên 30 tiết trong tuần, mà định mức chỉ là 18 tiết. Lên lớp liên miên, tôi được phân công dạy khối năm thứ nhất, học môn triết học. Môn này đúng sở trường rồi, tôi say sưa soạn bài lên lớp truyền thụ kiến thức đã học đã đọc cho sinh viên. Là một cán bộ giảng dạy trẻ khỏe chưa có gia đình riêng cho nên thường phải dạy cho các bác các anh khi ốm đau hoặc có việc bận. Thế là dạy luôn cả các môn khác: Kinh tế chính trị, Chủ nghĩa xã hội khoa học, lịch sử Đảng. Dạy môn nào lớp nào, tôi cũng chuẩn bị chu đáo và  say sưa hết mình. Thời gian lên lớp càng nhiều hơn và càng nhanh chóng chiếm được tình cảm của học sinh, của đồng nghiệp. Năm sau tổ chính trị nhận thêm 2 cán bộ nữa, đều là nữ, cũng đều là bộ đội về học, một người học ở đại học sư phạm cùng khoa với tôi và một người học ở trường đại học tổng hợp. Như vậy tổ chính trị đã có 9 người, có nam có nữ, có già có trẻ, có những người được đào tạo chính quy. Diện mạo và uy tín của tổ đã thay đổi nhiều.

Về trường tháng 10, tháng 12 đại hội đoàn trường, tôi được bầu làm phó bí thư. Anh Nguyễn Ngọc Nguyện dạy môn tâm lý giáo dục, quê Lạng Giang tiếp tục làm bí thư. Lúc này tôi đã 28 tuổi, anh Nguyện 36 tuổi. Đại hội khóa sau vào tháng 12 năm 1983, tôi được bầu làm bí thư đoàn trường, anh Nguyện chuyển sang làm trưởng phòng giáo vụ. Mấy năm sau, tôi lại kiêm phó phòng giáo vụ. Thời gian giúp việc cho anh Nguyện ở đoàn trường và ở phòng giáo vụ tôi đã học được ở anh rất nhiều, một con người thông minh, nhanh nhẹn và rất tình cảm.

Vừa làm bí thư đoàn vừa giảng dạy, việc nào cũng phải quyết tâm làm tốt. Công việc cuốn hút, hàng tháng chẳng về thăm bố mẹ, mặc dù có xe máy. Thời gian này tôi được Tỉnh đoàn giới thiệu vào “Ban chấp hành trung ương hội sinh viên Việt Nam” theo cơ cấu Hà Bắc được một người. Tham gia được một khóa, lúc đó anh Hồ Đức Việt làm chủ tịch hội. Sau này anh làm bí thư trung ương đoàn, một lần anh Hồ Đức Việt về thăm đoàn trường Cao đẳng sư phạm Hà Bắc. Sau chuyến đó bí thư tỉnh đoàn ngỏ ý cho tôi chuyển lên tỉnh đoàn, nhưng tôi lại không lên vì nghĩ làm chuyên môn bền vững hơn, một ý nghĩ có thể là không sáng suốt.

Đoàn trường là nòng cốt tổ chức phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao. Sẵn có tiềm năng nên phong trào này rất mạnh, luôn luôn nhất nhì trong tỉnh. Hàng năm vào dịp kỷ niệm ngày nhà giáo Việt Nam đều tổ chức hội diễn văn nghệ và thi đấu thể thao toàn trường. Sinh viên cán bộ các khoa phòng tưng bừng như ngày hội.

Hoạt động giảng dạy và công tác đã nảy nở tình cảm. Mấy lần lên lớp bắt gặp ánh mắt của một “cô bé” hay mặc chiếc áo màu đỏ tôi đã xao lòng. Hôm nay giữa sân trường kỷ niệm ngày nhà giáo Việt Nam, tôi ngồi trên sân khấu trong hàng ghế chủ tịch đoàn lại thấy ẩn hiện thấp thoáng áo đỏ trong màn múa tập thể. Em mặc áo đỏ quần bò, dáng cao to, da trắng hồng, hai bím tóc đung đưa,vẻ đẹp khỏe mạnh nổi trội trong đội hình đông đúc. Tôi như bị thôi miên theo nhịp điệu di chuyển của áo đỏ và trong đầu nhâm nhẩm thành mấy câu thơ:

Em mặc áo màu đỏ

Trời mặc áo màu xanh

Giữa sân trường ngày hội

Là áo đỏ của anh.

Đấy là thầm yêu và tự nhận thế thôi chứ biết người ta thế nào. Những ngày sau, khi vào lớp em tôi cứ thấy bồi hồi, lướt nhìn đã thấy áo đỏ da trắng hai mắt to tròn long lanh nhìn tôi. Tối về tôi làm mấy câu thơ nữa:

Hôm nay vào lớp em

Anh lướt nhìn rất vội

Gặp ánh mắt thân quen

Thấy tim mình bối rối

Anh nhìn em không nói

Mà trăm nghìn vấn vương…

Đúng là tình yêu bắt đầu từ đôi mắt và đàn ông yêu bằng mắt. Em đã có tình cảm với tôi, chúng tôi thầm yêu và tình yêu cứ lớn dần. Tiếp theo là những ngày dài mong ngóng chờ đợi. Ngày nào không nhìn thấy em là một ngày dài đằng đẵng. Cổng trường là một con dốc, học sinh phải xuống xe dắt xe qua con dốc ấy để tới lớp học. Tôi ở căn phòng có cửa sổ nhìn ra, sáng nào cũng đứng đó chờ đợi, đi lại trong căn phòng, thỉnh thoảng lại nhìn ra qua cửa sổ, y như con chim nhảy nhót trong lồng. Nhìn thấy em cùng tốp bạn bè ríu rít dắt xe lên dốc, tim tôi cứ rộn lên, em cũng nhìn vào khuôn cửa sổ ấy, chúng tôi trao nhau ánh mắt thiết tha, khoảnh khắc ấy thật đẹp, tôi lại làm mấy câu thơ:

Mỗi sáng nhìn thấy em

Nghe tiếng em dịu hiền

Tim anh như chim nhỏ

Nhốt trong lồng không yên.

Chúng tôi yêu nhưng không dám công khai, vì xấu hổ, sợ mọi người dị nghị về tình thầy trò. Cuối năm 1985, khóa 2 cao đẳng tốt nghiệp, tôi lên phòng tổ chức đặt vấn đề cho Nguyễn Thị Nga lớp toán 2B quê thị xã Bắc Ninh về công tác ở Hiệp Hòa. Lúc bấy giờ mọi người mới biết chuyện và tin này lan rất nhanh xôn xao toàn trường, vì tôi cũng là nhân vật được nhiều người quan tâm. Theo đề nghị của tôi phòng giáo dục Hiệp Hòa điều người yêu về trường cấp 2 Đức Thắng, một trường trung tâm huyện. Ngày chủ nhật 22 tháng 12 năm 1985 đúng ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam, chúng tôi được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới. Hôm ấy trời rét, khô hanh, gió bắc thổi mạnh. Đường từ trường về nhà bụi đỏ quạch, vậy mà rất đông bạn bè đồng nghiệp học sinh đạp xe 30 cây số về dự. Đám cưới thật vui, anh Nguyễn Văn Vọng phó hiệu trưởng thay mặt nhà trường phát biểu, Việt Hưng giáo viên tổ thể dục, nhiếp ảnh của trường chụp ảnh cưới. Chúng tôi vô cùng hạnh phúc, nhưng đến bây giờ vẫn áy náy để mọi người đã vất vả vì mình.

Ảnh cưới – Năm 1985

Ảnh cưới năm 1985

Sau ngày cưới chúng tôi chẳng được nghỉ tuần trăng mật như bây giờ. Tôi lên trường Cao đẳng, vợ ra trường Đức Thắng, nhà trường cũng phân cho một căn phòng hẹp với chiếc giường một đơn sơ. Sau một tuần làm việc là đến ngày tết dương lịch. Được nghỉ, tôi phóng xe về. Hôm ấy đã xảy ra sự cố đặc biệt. Khi về đến trung tâm thị trấn Thắng, trước cửa bưu điện, trời đã tối mà xe bị hỏng đèn, va chạm với xe đạp của một ông già chừng ngoài 50 tuổi quê Đông Lỗ đi bán ốc bên Phổ Yên về. Xe của ông bị quặn vành số 8. Trời đã tối mịt, đang vội vào trường đón vợ về nhà mà phải dừng lại đi sửa xe cho ông. Xong xuôi đâu đấy vào trường Đức Thắng, vợ đang chờ. Thầm nghĩ vừa gặp rủi ro, xe máy lại hỏng đèn, thôi không về nữa mà ngủ lại trường vợ. Phòng nghỉ ở trên thềm cao không dắt xe máy lên được, phải gửi xe vào phòng cô Hường ở dãy nhà bên dưới. Cửa phòng cô Hường là dạng cửa thượng song hạ bản, không khóa không chốt mà chỉ dùng đoạn dây dù buộc vào cánh cửa rồi lồng cây gậy quay ngang. Cô thức khuya cuốn pháo rồi ngủ thiếp đi, không tắt điện, kẻ trộm vào nhìn thấy xe máy, thò tay cắt dây dù mở cửa lấy mất xe. Hôm ấy là đêm 31 tháng 12 năm 1985, rạng sáng mồng 1 tháng 1 năm 1986 – ngày Tết dương lịch. Lần đầu tiên huyện Hiệp Hòa có chuyện mất xe máy, tài sản ngang với một tòa nhà. Công an huyện chia nhiều mũi truy tìm nhưng đều không có kết quả. Có người bảo cưới vợ ở tuổi 33 nên gặp rủi ro. Lại có người bảo “của đi thay người”. Chẳng biết vì lí do gì nhưng trước mắt là phải xe đạp đi về hơn ba mươi cây số hàng tuần. Bắt đầu thời kỳ vất vả.

Tháng tư năm 1986, bố mẹ và anh trai mua cho một mảnh đất rộng gần năm sào ở chân đồi chớp, sau này thuộc thị trấn Thắng. Cả nhà xúm vào làm căn nhà tre hai gian ở tạm. Thế là chúng tôi đã có một căn nhà riêng, một gia đình riêng, một tổ ấm để đi về. Thời gian này bà xã ở nhà một mình, thỉnh thoảng mẹ sang ở cùng, cuối tuần tôi mới về. Ngày 28-11 năm 1986 chúng tôi sinh con trai đầu lòng đặt tên là Nguyễn Trung Kiên. Sau hơn một năm ngày cưới, gia đình nhỏ đã thêm một thành viên mới. Khó khăn nhưng hạnh phúc. Năm 1987, bố mẹ, anh em cả nhà lại tập trung xây căn nhà cấp bốn to rộng cao ráo tường xây gạch 20 gỗ xoan, lợp ngói mũi, giữa vườn rộng và nhiều cây xanh. Thời ấy được như vậy là tốt lắm rồi.

Cuối năm 1987 tôi lại được nhà trường cho kiêm thêm một chức vụ nữa – phó phòng giáo vụ. Là giáo viên, đảng ủy viên, bí thư đoàn nay thêm phó phòng giáo vụ, việc nào cũng quan trọng, việc nào cũng cố gắng làm tốt. Việc giảng dạy thì được giảm số tiết lên lớp, nhưng các việc khác thì không tính đếm được. Bí thư đoàn trường phải lo phong trào xây dựng “tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa”, xây dựng “khu nội trú sinh viên văn hóa”, xây dựng phong trào văn hóa văn nghệ thể dục thể thao, tổ chức các đoàn tham gia thi đấu, hội diễn, hội thao với tỉnh với Bộ giáo dục đào tạo…Phó phòng giáo vụ phải duy trì thời gian chương trình học tập, chương trình giáo dục lao động của các khoa, cùng với trưởng phòng quản lý việc coi thi chấm thi cuối học kỳ cuối năm. Đặc biệt là những năm ấy nhà trường phải cử các đoàn đi coi thi và chấm thi đại học, tôi chuyên làm thư ký hội đồng.

Công việc ở trường vất vả nhưng nếu sắp xếp được là tôi lại tức tốc đạp xe về nhà, không kể là thứ bảy hay chủ nhật. Đi lại nhiều nên sức khỏe có phần giảm sút. Thương vợ con ở nhà, tôi làm tất cả không quản ngại gì. Có một lần vào thứ 7 phải ở lại trực trường lòng cứ bồi hồi, hình dung vợ và con trai đang mong đợi, tôi bắt đầu có ý định xin chuyển về quê. Hôm ấy là tối thứ bảy ngày 12 tháng 3 năm 1988 tôi làm bài thơ với 4 câu đầu là:

Tối thứ 7 này, phải ở lại trực trường

Lòng anh như lửa đốt

Không! không thể nào như thế được

Anh sẽ về cùng em…

Có ý định chuyển về quê cũng phải trải qua suy nghĩ đắn đo. Vì nếu chuyển thì ngần ấy năm phấn đấu ở trường, tất cả những gì đã có đều chẳng còn ý nghĩa nữa. Cũng luyến tiếc nhưng thôi tất cả vì gia đình, “vợ ở đâu thủ đô ở đấy” mà.

Sau đó tôi đặt vấn đề với Đảng ủy và ban giám hiệu về việc xin về quê vì lý do gia đình. Thầy hiệu trưởng khuyên nên ở lại và hứa sẽ xin cho vợ chuyển lên Bắc Giang hoặc một trường cấp 2 nào đó gần trường Cao đẳng sư phạm. Tôi hiểu có thể thầy chưa muốn cho đi hoặc thầy muốn giành cho mình một cơ hội khác, hoặc thầy nghĩ mình ở trường sẽ tốt hơn về quê. Nếu chuyển vợ lên thì sẽ phải ở một gian nhà tập thể. Như thế không ổn. Phương án chuyển về quê vẫn là tốt nhất. Tôi lại tiếp tục đề nghị nguyện vọng của mình. Thầy hiệu trưởng nói, đồng ý cho đi nhưng phải hết năm học này. Hết năm học, thầy lại nói phải sau đại hội Đảng bộ trường, rồi kỷ niệm 10 năm thành lập trường Cao đẳng sư phạm. Thế là tôi phải tiếp tục hoàn thành tất cả các nhiệm vụ chuẩn bị cho các sự kiện lớn của trường. Sau hơn hai năm mới đạt được nguyện vọng. Tháng 1 năm 1991 có quyết định chuyển về huyện ủy Hiệp Hòa.

Lễ Khai trường – Trường CĐSP Ngô Gia Tự – Hà Bắc – Năm học 1986 – 1987

10 năm ở trường CĐSP Ngô Gia Tự Hà Bắc đóng góp của tôi chỉ là một hạt cát, một viên gạch, nhưng thực sự đã là toàn tâm toàn ý, hết mình vì nhà trường, ở cương vị nào cũng say sưa nhiệt huyết. Trường sư phạm có tính mô phạm, nghĩa là khuôn mẫu để rèn đúc ra sản phẩm là các thầy cô giáo. Trường sư phạm là máy cái để sản xuất ra các máy con. Người giáo viên trường sư phạm đào tạo ra những người giáo viên. Tôi tự hào đã có 10 năm góp phần chắp cánh ước mơ cho một thế hệ thanh niên trở thành thầy cô giáo trên quê hương Hà Bắc…

(Kỳ sau đăng tiếp: Chương IV “Một thời công chức”)


Bình luận về bài viết này

Thịnh hành