Kỳ kế tiếp Sơn Tây – Thủ đô của bộ đội….

Trắc thủ xe điều khiển là những người được chọn lọc, kết thúc chiến tranh lại là những người được ưu tiên phát triển. Tháng 10 năm 1973, tôi với Cuông, Tỉnh được cử đi đào tạo sỹ quan. Cuông đi học ở Liên Xô, Tôi và và Tỉnh đi học ở trường sỹ quan phòng không Sơn Tây. Như vậy 6 anh em về xe điều khiển tháng 5 năm 1972, nay 3 anh đi học sỹ quan. Kíp trắc thủ chỉ còn lại Chinh, sẽ thay thế vào vị trí của Tỉnh, thành một kíp ở lại là Chinh góc tà, Oanh cự ly, Minh phương vị.

Lên trường sỹ quan Sơn tây, thông thường thì chúng tôi sẽ vào khoa tên lửa, nhưng không hiểu tại sao lại chuyển sang khoa cao xạ, sau mới biết là do trung đoàn 285 làm chậm so với yêu cầu của nhà trường. Cứ phải tuân lệnh thôi, kỷ luật quân đội mà. Cả tôi và Tỉnh được xếp vào đại đội 3 tiểu đoàn 6 trường sỹ quan phòng không.

Ảnh minh hoạ: Sơn Tây -Hà nội ngày nay

Nhà trường là nơi đào tạo cán bộ lâu dài cho quân đội. Với mục tiêu xây dựng quân đội chính quy hiện đại, học viên của trường phải rèn luyện thử thách nặng nề vất vả lắm. Thời gian giờ giấc y oóc từ sớm đến khuya. 5 giờ sáng, khi trực ban đại đội mới đánh tiếng kẻng đầu tiên, trời vẫn còn tối, giá rét thấu xương nhưng tất cả đã bật dậy. Hồi kẻng báo thức vừa dứt, cả đại đội đã xếp hàng ngay ngắn tập thể dục, trung đội nào có người ra sau một phút là bị trừ điểm thi đua trong ngày. Vì thế có chuyện hài hước, trực ban trung đội đêm ngủ phải ngậm còi để khi trực ban đại đội mới dí dí dùi kẻng là tuýt còi ngay. Cả đêm trung đội chìm trong giấc ngủ nhưng lính gác vẫn nghe thấy tiếng he he nhè nhẹ đều đều theo nhịp thở của trực ban trung đội ngủ vẫn ngậm còi. Thi đua có sức mạnh cực kỳ to lớn? Giờ nào việc ấy, sáng lên giảng đường học lý thuyết, chiều ra thao trường thực hành, thực tập chỉ huy bắn pháo 37 ly, 57 ly, 100 ly. Hết giờ hành chính là thể thao, tăng gia, 7 giờ tối sinh hoạt, 9 giờ điểm danh, 10 giờ đi ngủ. Tất cả đều được đánh giá xếp loại hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng. Dần dần đơn vị hoạt động như một cỗ máy vậy. Nói về tăng gia, cụ thể là trồng rau thì bộ đội trường phòng không hơn tất cả mọi cơ sở trồng rau nào khác. Đất Sơn Tây về mùa khô khắc nghiệt lắm, cằn cỗi sỏi đá, trời rét gió hanh khô thiếu nước, thế mà bí xanh bí đỏ, bầu mướp, rau muống rau cải của trung đội nào cũng xanh tốt, đơn vị thừa rau ăn. Bí quyết chính là thi đua và “nước sông công lính”.

Sơn Tây đúng là “thủ đô của bộ đội”, “Gái Hà Nội, bộ đội Sơn Tây” mà. Nơi đây có trường sỹ quan phòng không, sỹ quan lục quân, sỹ quan biên phòng, sỹ quan pháo binh, sỹ quan hóa học, viện quân y 105… Ngày nghỉ mỗi tiểu đội chỉ được một hai vé ra ngoài nhưng trên đường thị xã Sơn Tây vẫn đông nghịt bộ đội, toàn học viên các trường sỹ quan. Những năm ấy, đất nước khó khăn, đời sống bộ đội thiếu thốn, bữa ăn thiếu cả số lượng và chất lượng, rèn luyện vất vả, thời tiết khắc nghiệt. Vì thế sức khỏe học viên không tốt, đang sức trẻ nhưng nhiều anh xanh xao, có lúc hầu như cả đơn vị mắc bệnh kiết lỵ, buổi sáng tranh nhau vào dãy nhà xí lụp xụp lạc hậu.

Đầu năm 1974 đơn vị tổ chức đi lao động nửa tháng trên núi Ba Vì. Nhiệm vụ là khai thác cây vầu từ trên rừng xuống chân núi, công việc rất nặng, rừng ẩm ướt, muỗi vắt rất nhiều. Những con vắt nhỏ tí xíu ngo ngoe thoăn thoắt trên những thảm lá rừng hoai mục. Một hôm tôi thấy nhói đau ở khớp cổ chân trái, mặc dù không ngã không bị trượt chân cứ tưởng do vắt cắn. Sau đó thỉnh thoảng lại đau, sáng ngủ dậy đau, một lúc sau mới đi lại bình thường. Kết thúc nửa tháng lao động tôi lên trạm quân y của trường khám bệnh, trạm giới thiệu ra viện 105, làm một vài xét nghiệm, bác sỹ kết luận bị “viêm khớp dạng thấp”. Chắc là do học tập rèn luyện vất vả, thời tiết không thuận lợi nên bệnh tình ngày càng tăng. Uống thuốc tây không chuyển biến, có người giới thiệu tôi lên chân núi Ba Vì lấy thuốc nam của một bà mế người Mường. Tối tối sau giờ sinh hoạt xuống nhờ nhà bếp đun thuốc và trùm chăn xông toàn thân đến khi mồ hôi toát ra. Thuốc nam hàng tháng cũng chẳng khỏi, lại đi khám một đôi lần nữa. Bác sỹ kết luận bị viêm khớp mãn tính rồi, khó khỏi lắm. Thật buồn. Chẳng lẽ mình mới 21 tuổi mà đã mắc bệnh. Tương lai rồi sẽ ra sao? Phải quyết tâm tìm hiểu về căn bệnh này, rèn luyện chạy chữa cho bằng được. Đáp ứng yêu cầu học tập rèn luyện của trường đã vất vả, cộng với rèn luyện chữa bệnh nữa càng vất vả hơn.

Lớp chúng tôi, thực chất là đại đội có đến hơn trăm học viên được tuyển về từ các đơn vị của toàn quân chủng Phòng không – Không quân. Là một trong những lớp đào tạo dài hạn đầu tiên. Khóa học trong 3 năm. Ngay từ năm đầu, một số bạn khi nhập ngũ đang là sinh viên có tư tưởng chán nản, muốn được trở về trường đại học. Họ có biểu hiện tiêu cực bằng cách cáo bệnh để được ra quân. Bộ phận sinh viên ấy đã ảnh hưởng tới tư tưởng của tôi. Tôi nghĩ mình đau yếu thật được ra để phấn đấu vào trường đại học nào đó cũng tốt. Không thành võ thì thành văn, mà sức khỏe của tôi là lý do rất chính đáng để được ra, không cần phải dùng biện pháp cáo bệnh như mấy anh sinh viên.

Kết thúc năm học thứ nhất, đại đội có hàng chục học viên bị loại, đa số là các đồng chí có vấn đề về sức khỏe, người thì bị gai đôi cột sống, người thì bị viêm loét dạ dày, người thì bị tiền đình, người thì viêm khớp, v.v… Một số có tư tưởng tiêu cực bị loại cũng với lý do sức khỏe, nhưng không được về trường đại học đâu. Tất cả về đơn vị cũ, đi ở đâu lại về ở đấy. Tôi nằm trong số này, về đơn vị cũ vì bị “viêm khớp mãn tính”.

Trở lại Hải Phòng

Đúng một năm là học viên trường sỹ quan phòng không, tháng 10 năm 1974 tôi lại quay về tiểu đoàn 73 trung đoàn 285. Sau một năm đóng quân trên nhiều địa bàn tỉnh Hà Bắc, nay tiểu đoàn 73 đã về Hải Phòng và đang ở trận địa cũ quen thuộc là Trịnh Hưởng – Thủy Nguyên. Tôi khoác ba lô lững thững đi trên con đường thẳng tắp xuyên qua cánh đồng có hai hàng phi lao tỏa bóng để vào đơn vị.

Ảnh minh hoạ: Hải Phòng ngày nay

Sau hai năm rưỡi, lần thứ hai tôi về tiểu đoàn 73 qua con đường này. Lại vẫn nhìn thấy những phụ nữ cuốc ruộng, mặc nai nịt từ đầu đến chân, đội nón, bịt kín mặt bằng khăn màu đen, chỉ hở hai mắt lấp lánh. Chỉ khác là lần trước về tiểu đoàn 73 vào tháng 5, có mấy chục người, lần này vào tháng 10 và chỉ có một mình. Khi về vẫn được các đồng chí lãnh đạo chỉ huy và anh em quý mến tin tưởng lắm. Nhưng không thể về xe điều khiển được nữa. Tôi được điều về xe AA, tức là xe tính toán. Được một vài tháng khi đơn vị chủ trương không tổ chức bếp ăn theo đại đội đặt ở nhà dân nữa mà thành lập bếp ăn toàn tiểu đoàn đặt tại doanh trại, tôi lại được điều lên làm quản lý bếp ăn tiểu đoàn. Vừa thành lập bếp ăn tiểu đoàn, với tinh thần ổn định lâu dài, đơn vị lại rục rịch chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới. Lính tráng đồn đoán có thể đi Nam.

Ngày 13-3-1975, giải phóng Buôn Ma Thuật mở đầu thắng lợi giải phóng miền Nam. Khí thế tiến công sục sôi, quân ta liên tiếp giành thắng lợi, giải phóng Huế, Đà Nẵng… Trung đoàn 285 chính thức nhận lệnh hành quân góp phần giải phóng miền Nam.

Kỳ sau đăng tiếp: Sài Gòn ơi! Ta đã về đây

Bình luận về bài viết này

Thịnh hành